Đề thi tuyển sinh vào Lớp 10 môn Ngữ văn năm 2020 - Sở GD và ĐT Bình Thuận (Có đáp án)
Câu 1: (3.0 điểm) “Thời gian là vàng”
Em hãy viết một bài văn ngắn khoảng 1 trang giấy thi nêu suy nghĩ của bản thân về câu ngạn ngữ
trên.
Em hãy viết một bài văn ngắn khoảng 1 trang giấy thi nêu suy nghĩ của bản thân về câu ngạn ngữ
trên.
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi tuyển sinh vào Lớp 10 môn Ngữ văn năm 2020 - Sở GD và ĐT Bình Thuận (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
de_thi_tuyen_sinh_vao_lop_10_mon_ngu_van_nam_2020_so_gd_va_d.pdf
Nội dung text: Đề thi tuyển sinh vào Lớp 10 môn Ngữ văn năm 2020 - Sở GD và ĐT Bình Thuận (Có đáp án)
- ĐỀ THI CHÍNH THỨC VÀO 10 MÔN: NGỮ VĂN – BÌNH THUẬN NĂM 2020 I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3 điểm) Đọc kĩ các đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏi: Trích 1: Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã nhịp trăng cao, Biển cho ta cá như lòng mẹ, Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” Câu 1: Đoạn thơ trên trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai? (0.5 điểm) Câu 2: Xác định và nêu tác dụng biện pháp tư từ trong hai câu thơ cuối. (1.0 điểm) Trích 2: “Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lung, Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động”. Câu 3: Tìm hai từ láy được sử dụng trong đoạn văn? (0.5 điểm) Câu 4: Hai câu văn đầu tiên liên kết với nhau bằng phép liên kết gì? Từ ngữ nào dùng để liên kết? (1.0 điểm) II. LÀM VĂN (7.0 điểm) Câu 1: (3.0 điểm) “Thời gian là vàng” Em hãy viết một bài văn ngắn khoảng 1 trang giấy thi nêu suy nghĩ của bản thân về câu ngạn ngữ trên. Câu 2: (4.0 điểm) Cảm nhận của em về hai khổ thơ sau: “Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.”
- Câu 1 “Thời gian là vàng” Em hãy viết một bài văn ngắn khoảng 1 trang giấy thi nêu suy nghĩ của bản thân về câu ngạn ngữ trên Phương pháp: phân tích, giải thích, tổng hợp Cách giải: 1. Giới thiệu vấn đề: Thời gian là vàng. 2. Giải thích vấn đề - Thời gian là hình thức tồn tại cơ bản của vật chất (cùng với không gian), trong đó vật chất vận động và phát triển liên tục, không ngừng. - Vàng là kim loại quý có màu vàng óng ánh, không gỉ, dễ dát mỏng và kéo sợi hơn các kim loại khác, thường dùng để làm đồ trang sức. => Thời gian là vàng: thời gian vô cùng quý giá, qua đi sẽ không thể lấy lại được. 3. Phân tích, bàn luận vấn đề - Tại sao nói “Thời gian là vàng”? + Thời gian cho mỗi người dù giàu hay nghèo đều là một ngày 24 giờ nhưng ta lại không thể dùng tiền để mua được. + Thời gian qua đi ta không thể lấy lại được. - Vai trò của thời gian với con người: + Thời gian giúp con người tích lũy được giá trị, không chỉ vật chất mà quan trọng hơn là tinh thần, nếu biết tận dụng tốt sẽ khiến giá trị bản thân tăng lên (trưởng thành hơn, hiểu biết hơn, ) + Thời gian giúp thay đổi suy nghĩ, tình cảm của con người: giúp xóa nhòa nỗi đau, hận thù. + - Làm thế nào để sử dụng thời gian hợp lí? + Cần biết quý trọng thời gian. + Phân chia thời gian trong ngày bằng cách lập thời gian biểu cá nhân và tuân thủ thời gian biểu đó. + Cần có kế hoạch để sử dụng thời gian cho các công việc hợp lí, kết hợp giữa học tập và giải trí một cách hài hòa. - Phê phán những người không biết quý trọng thời gian, sử dụng thời gian lãng phí vào những việc vô bổ. 4.Liên hệ bản thân và Tổng kết
- - Tình huống bất ngờ xảy đến khiến dòng chảy cuộc đời như ngừng lại, thời gian cũng như ngừng trôi trong cuộc gặp gỡ giữa hai tâm hồn, khi người và trăng mặt đối mặt. Con người như lặng đi trong nỗi xúc động mãnh liệt. Người đối diện với trăng trong tư thế có phần thành kính “ngửa mặt lên nhìn mặt "có cái gì rưng rưng” + Từ “mặt” là từ nhiều nghĩa, tác giả đối mặt vầng trăng hay cũng chính là đối diện đàm tâm, tự soi vào chính mình, soi vào quá khứ, nhìn một thời lãng quên vô tình, bạc bẽo. + Trong cuộc đối diện không lười đó, gặp lại người bạn tri kỉ thuở xưa, con người “rưng rưng” xúc động. “Rưng rưng” là cảm xúc dân trào đến nghẹn lời, đến muốn khóc. + Trong sự xúc động dâng cao đó, cả một quãng thời gian rất xa sống dậy: “Như là đồng là bể như là sông là rừng” Điệp ngữ “Như là”, phép liệt kê: đồng, sông, bể, rừng xuất hiện một lần nữa, cùng nhịp thơ nhanh như nhiều lớp sóng của hoài niệm ùa về. Phép so sánh để khẳng định cái khoảnh khắc “rưng rưng” ấy, chính là tuổi thơ êm đềm, là những năm tháng chiến đấu gian lao, vất vả, ở đó người luôn có trăng. => Khổ thơ là sự xúc động chân thành sâu lắng. Những suy ngẫm của tác giả. - Khép lại bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã thể hiện rất rõ ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng và từ đó tác giả nêu ra bài học triết lí gợi nhắc thái độ sống đối với mỗi người “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.” - Trăng xưa vẫn vậy, vẫn tròn đầy, vẹn nguyên thủy chung, từ “cứ”, “kể chi” còn cho thấy thái độ bao dung, độ lượng của vần trăng nhưng đối lập với hình ảnh trăng tròn vành vạnh là con người vô tình, đổi thay. - Trăng như một người bạn với ánh nhìn im phăng phắc, đó là cái nhìn nghiêm nghị dù rất bao dung, không một lời trách cứ, Trăng như một người bạn bao dung, nhân hậu, độ lượng - Đến đây “Vầng trăng” đã được thay bằng “Ánh trăng” để nhấn mạnh về ánh sáng. Ánh sáng của lương tri con người soi rọi những góc khuất tối trong tâm hồn người. Ánh sáng soi đường cho con người trở về về với con đường thủy chung, tình nghĩa